1. Những Hình Thái Sơ Nguyên Của Đời Sống Tôn Giáo - Les Formes Élémentaires de la Vie Religieuse
Tác giả: Émile Durkheim
Ngôn ngữ: Tiếng Việt
Năm xuất bản: 2025
Số trang: 604
Nhà xuất bản: Đại học Sư phạm
Kích thước: 16 x 24 cm
Loại bìa: bìa cứng
Trong thị trường chữ nghĩa tại Việt Nam, theo sự hiểu biết của tôi, hình như chỉ có một tác phẩm của Durkheim được biên dịch sang tiếng Việt là cuốn Les règles de la méthode sociologique (Các quy tắc về phương pháp xã hội học, Đinh Hồng Phúc dịch, NXB Tri thức 2012). Nhưng kiệt tác kinh điển của Durkheim được nhiều người xưng tụng lại chính là Những hình thái sơ nguyên của đời sống tôn giáo. Đây cũng là tác phẩm đặt nền tảng vững chắc cho môn xã hội học tôn giáo (sociology of religion) được Presses universitaires de France xuất bản lần đầu vào năm 1912. Những quan điểm được Durkheim trình bày trong kiệt tác này có thể được tóm gọn trong những mệnh đề mang tính khẳng quyết như sau:
1. Chức năng xã hội chủ yếu của tôn giáo là củng cố sự gắn kết trong cộng đồng, xã hội (social cohesion).
2. Tôn giáo đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc đem lại trật tự, ổn định, chuẩn hóa các quy tắc đạo đức trong xã hội (social regulation).
3. Khi thờ phượng một đấng thần linh nào đó (Thiên Chúa, Phật, Allah) các tín đồ đang thờ lạy chính xã hội.
4. Bản chất của tôn giáo nằm trong sự tách ly giữa cái thiêng liêng (the sacred) và cái phàm tục (the profane). Chính hai phạm trù này đã định hình cái nhìn tôn giáo của Mircea Eliade (1907-1986), một trong những nhà nghiên cứu tôn giáo vĩ đại nhất của thế kỷ 20, tác giả của Cái Thiêng và Cái Phàm (The Sacred and the Profane, 1961), một tác phẩm kinh điển trong lãnh vực tôn giáo học với trọng tâm trình bày là lý luận về linh hiện (hierophany) được tác giả định nghĩa là “sự trình hiện của thực thể thiêng liêng” (the manifestation of the Sacred).
Bất chấp bao nhiêu thời gian đã trôi qua, và cũng bất chấp bao nhiêu sự phê bình và chỉ trích, đúng đắn có, cay nghiệt có, thậm chí phủ quyết sạch trơn cũng có, nhưng kiệt tác Những hình thái sơ nguyên của đời sống tôn giáo của Émile Durkheim vẫn vẹn nguyên giá trị vĩnh cửu của nó như một hòn đá tảng quan trọng nhất, lớn nhất, với tầm cao sánh ngang cùng các tác phẩm của Max Weber, Peter Berger, Thomas Luckmann, Mircea Eliade, Rudolf Otto sau này, trong công trình kiến trúc đồ sộ của chuyên ngành triết học và xã hội học tôn giáo.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc./.
TS. DƯƠNG NGỌC DŨNG
Chuyên ngành Tôn giáo học (Boston University, 2001)
Giám đốc Chương trình Triết học
Trường Đại học Hoa Sen (2021-2024)
2. Thiền Và Văn Hóa Nhật Bản (Tái Bản)
Tác giả: Suzuki T. Daisetsu
Ngôn ngữ: Tiếng Việt
Năm xuất bản: 2025
Số trang: 615
Nhà phát hành: Thiện Tri Thức
Nhà xuất bản: Hồng Đức
Kích thước: 15.5 x 23 cm
Loại bìa: Bìa Cứng
Được xem như nhân vật có thẩm quyền bậc nhất Nhật Bản về Thiền Phật giáo, học giả Suzuki T. Daisetsu đã có cống hiến lớn lao hơn cả là đi tiên phong trong việc mở một con đường bá yếu chỉ của Thiền tông tới thế giới Tây phương. Mất năm 1966 ở tuổi 95, ông đã dành trọn cuộc đời dài của mình cho sự nghiệp này.
Tuy nhiên, trong những gì ông viết, không một tác phẩm nào có thể gồm thu giáo huấn và triết lý nhà Thiền một cách có uy lực cho bằng Thiền và văn hóa Nhật Bản( Zen and Japanese Culture). Quyển sách được ấn hành lần đầu vào năm 1938 và cải biên hầu như toàn bộ vào năm 1958. Trong ấn bản sau, ông còn đề cập đến nhiều chủ đề mới. Tác phẩm dã lôi kéo độc giả đến gần Suzuki và nó dược đánh giá như một nghiên cứu kinh điển về ”Tinh thần thiền tông”
Sau khi đã giải thích Thiền là gì, tiến sĩ Suzuki quan sát cặn kẻ ảnh hưởng của Thiền Phật giáo dền nhiều khía cạnh khác nhau trong sinh hoạt và nghệ thuật Nhật Bản như Kiếm đạo, Trà đạo, thơ Haiku và tình yêu thiên nhiên của người Nhật. Những chương khác bàn về mối quan hệ của Thiền đối với Nho giáo, vai trò của nó trong sinh hoạt của người samurai cũng như ảnh hưởng của nó đến mỹ thuật Nhật Bản.
Cuốn sách có kèm theo thư mục tham khảo, bảng tra chữ với nhiều hình ảnh minh họa nhằm bổ túc cho chính văn và còn có mục đích trưng bày một số tác phẩm tiêu biểu của mỹ thuật và đạo Thiền.
3. Pháp Duyên Khởi: Trọng Điểm Triết Học Phật Giáo
Tác giả: David J. Kalupahana
Người dịch : Thích Khai Pháp
Hiệu chú: Thích Hạnh Nguyên
Năm xuất bản : 2025
Số trang : 432
Nhà xuất bản : Phụ Nữ Việt Nam
Loại bìa : Bìa cứng
Kích thước: 14 x 20.5 cm
Như chúng ta đã biết, trong suốt hơn 45 năm hoằng dương Chánh Pháp, Đức Thế Tôn đã tuỳ theo căn cơ mỗi chúng sanh mà tuyên thuyết các giáo nghĩa đạo lý khác nhau gọi là “khế cơ, khế lý”. Tuy nhiên có thể tựu trung lại một điều cốt yếu rằng, giáo nghĩa tuy sâu rộng nhưng không ngoài 37 phẩm trợ đạo, và lấy pháp Duyên Khởi làm trọng tâm để diễn giải cho các nguyên lý vận hành của sự vật hiện tượng từ vật chất đến tâm thức chúng sanh.
Theo bản kinh Đại duyên (Mahānidāna sutta) Đức Thế Tôn đã khẳng định “pháp Duyên Khởi này thâm thuý. Này Ananda, chính vì không giác ngộ, không thâm hiểu giáo pháp này mà chúng sanh hiện tại bị rối loạn như một ổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ munja và lau sậy babaja không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đoạ xứ, sanh tử.” (Bản dịch của HT. Minh Châu).
Như vậy, thông qua pháp Duyên Khởi này cho thấy toàn bộ khổ đau mà chúng sanh đang trải qua là vì không hiểu giáo pháp này. Vậy, có thể nói nguyên lý Duyên Khởi là chìa khoá để mỗi chúng sanh tự tìm hạnh phúc hay khổ đau cho chính mình. Bên cạnh đó, Đức Thế Tôn cũng khẳng định rằng Ngài chứng ngộ không gì ngoài pháp Duyên Khởi: “Pháp duyên khởi chẳng phải do Ta tạo ra, cũng chẳng phải do người khác tạo ra. Nhưng dù Như Lai có xuất hiện hay chưa xuất hiện ở thế gian thì giới của pháp này vẫn thường trụ. Như Lai tự giác ngộ pháp này, thành Đẳng Chánh giác” (Bản dịch của HT. Tuệ Sỹ & Đức Thắng). Qua đó cho thấy, pháp duyên khởi vốn dĩ đã tồn tại trong tự tánh của tất cả vạn vật, và Ngài chỉ là người chứng ngộ nguyên lý tự tánh ấy. Không những thế vị trí của pháp Duyên khởi được Đức Phật khẳng định rằng “ai thấy pháp duyên khởi người ấy thấy Như Lai".
Trong quá trình thực hiện dịch tác phẩm này, dịch giả đã phải dựa vào cổ ngữ Pāli và Sanskrit được chua thêm từ tác giả để xác định được ý muốn trình bày của tác giả chứ không hoàn toàn căn cứ vào cách diễn đạt bằng tiếng Anh. Cho nên, đó cũng là một trở ngại khá lớn. Tuy đã cố gắng chuyển tải nội dung một cách hoàn thiện nhất có thể nhưng chắc chắn sẽ không sao tránh khỏi những sai sót, mọi trách nhiệm chính của bản dịch thuộc về người dịch, kính mong nhận được sự góp ý chân thành từ các bậc thiện hữu trí thức.
Người dịch xin gửi lời tri ân sâu sắc đến Thầy Thích Hạnh Nguyên đã dành nhiều thời gian hiệu chính bản thảo, dịch lại những thuật ngữ và đoạn văn thiết yếu, bổ túc và định hình nhiều điểm quan trọng giúp bản thảo được hoàn thành.
Cuối cùng, con kính dâng tác phẩm dịch thuật này cúng dường lên Tam Bảo và chư vị Tổ Sư tại Tổ đình Giác Nguyên - Quận 4 nhân ngày tưởng niệm 40 năm Hoà thượng thượng Thiện hạ Tường viên tịch. Với tâm thành 'cúng dường pháp là cúng dường tối thẳng.
Dịch giả,
THÍCH KHAI PHÁP
Kính cẩn đảnh lễ.